Percy Jackson and the Singer of Apollo

Tác giả: Rick Riordan

Thể loại: Truyện ngắn

Nguồn: The Hermes Express

Lưu ý: Bản dịch không có sự cho phép của tác giả.


Percy Jackson và ca sỹ của thần Apollo

Tôi biết các bạn sẽ hỏi gì.

“Percy Jackson này, sao cậu lại treo mình lủng lẳng trên biển quảng cáo ở Quảng trường Thời đại, nom như sắp té gãy cổ tới nơi, mà còn không mặc quần nữa chớ?”

Hỏi hay đó. Bạn có thể đổ lỗi cho Apollo, thần của âm nhạc, bắn cung, và thơ ca – đồng thời còn là thần của việc ép tôi tham gia những cuộc tìm kiếm ngu ngốc.

Thảm họa này bắt đầu khi tôi đem tặng cậu bạn Grover vài chiếc hộp nhôm nhân ngày sinh nhật cậu ấy.

.

À mà có lẽ tôi nên đề cập chuyện … tôi là một á thần. Cha tôi, thần Poseidon, là chúa tể của đại dương, nghe thì cũng ngầu đấy nhưng đa phần nó mang ý nghĩa rằng cuộc đời tôi đầy rẫy đám quái vật khoái săn lùng mình và mấy vị thần Hy Lạp nhiễu sự, những người thích xuất hiện bất chợt tại đường xe điện ngầm hay giữa lớp học toán hoặc thậm chí cả lúc tôi đang tắm. (Chuyện dài lắm. Đừng hỏi.)

Tôi đã nghĩ biết đâu mình sẽ được cuộc sống điên khùng này cho nghỉ phép trong một ngày để mừng sinh nhật Grover, song dĩ nhiên tôi đoán trật lất.

Grover cùng bạn gái của mình, Juniper, dành nguyên ngày tại Công viên Prospect ở Brooklyn để làm những việc gần gũi với thiên nhiên như nhảy múa với các nữ thần cây bản địa và hát dạ khúc cho mấy con sóc nghe. Grover là một thần rừng. Đây là quan niệm về trò vui của cậu ấy.

Juniper xem chừng đang có một khoảng thời gian đặc biệt vui vẻ. Trong lúc Grover và tôi cùng ngồi trên băng ghế, cô nhảy nhót nô đùa dọc theo Long Meadow với những tinh linh tự nhiên khác, đôi mắt nhuộm sắc diệp lục của cô lấp lánh giữa ánh nắng mặt trời. Vì cô là một nữ thần rừng, nguồn sống của Juniper gắn liền với bụi cây bách xù ở Long Island, nhưng Grover giải thích rằng cô có thể đi đến những khu vực gần nhà mình miễn là cô mang theo một nắm quả bách xù tươi trong túi. Tôi không muốn hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu đống quả vô tình bị bóp bẹp dí.

Nói tóm lại, chúng tôi tụ tập thư giãn, trò chuyện và hưởng thụ tiết trời dễ chịu. Tôi tặng Grover mấy hộp nhôm, nghe thì có vẻ nhọ nhưng đó là món ăn vặt ưa thích của cậu ấy.

Cậu ấy sung sướng nhai chóp chép vỏ hộp trong lúc các nữ thần cây thảo luận họ nên chơi trò gì. Grover lôi một dải băng bịt mắt ra khỏi túi và đề nghị trò Gắn Đuôi Cho Người[1], làm tôi hơi bị lo do tôi là con người duy nhất ở đây.

Thế rồi, chả hề báo trước, ánh nắng mắt trời sáng rực lên. Không khí trở nên nóng tới bức bối. Cách đấy năm mét hơn, cỏ kêu xì xì và một đám mây hơi nước rú rít như thể ai vừa mở toang chiếc máy ép cỡ đại tại cửa hàng giặt ủi tự động. Làn hơi nước biến mất, và đứng sừng sững trước mặt chúng tôi là thần Apollo.

Các vị thần có thể mang bất kỳ hình dáng nào tùy thích, nhưng thần Apollo coi bộ luôn chọn cái dáng vẻ ta-vừa-đi-thử-giọng-cho-một-nhóm-nhạc-nam-đấy. Hôm nay anh ta diện quần jean bó, áo sơ-mi trắng ôm sát người, cùng chiếc kính râm Ray-Ban mạ vàng. Mái tóc xoăn vàng của anh ta sáng bóng nhờ sản phẩm tạo mẫu tóc. Khi anh ta mỉm cười thì các nữ thần rừng đều kêu ré lên và cười khúc khích.

“Ôi trời…” Grover lầm bầm. “Này không phải điềm lành rồi.”

“Percy Jackson!” Thần Apollo cười tươi rói với tôi. “Và, ừm, anh bạn dê của cậu–”

“Tên cậu ấy là Grover,” tôi nói. “Và chúng tôi đại để là đang nghỉ phép, thưa thần Apollo. Hôm nay là sinh nhật Grover.”

“Chúc mừng sinh nhật!” Apollo nói. “Ta rất mừng vì các cậu đang nghỉ phép. Tức nghĩa hai cậu có thời gian rảnh để giúp ta giải quyết một rắc rối nho nhỏ.”

.

Hiển nhiên, rắc rối đó không hề nho nhỏ.

Apollo dẫn Grover và tôi đi khỏi bữa tiệc để nói chuyện riêng. Juniper không muốn cho Grover đi, nhưng cô đâu thể cãi nhau với một vị thần. Grover hứa sẽ quay trở về an toàn. Tôi hy vọng cậu giữ được lời hứa ấy.

Khi chúng tôi đến bìa rừng, Apollo quay lại đối diện với chúng tôi. “Cho phép ta được giới thiệu các chryseae celedon.”

Vị thần búng tay. Thêm nhiều hơi nước bốc lên từ đất rồi ba người phụ nữ vàng xuất hiện trước mặt chúng tôi. Khi tôi nói vàng, ý tôi là họ thật sự làm bằng vàng. Làn da kim loại của họ lấp lánh. Váy áo cộc tay của họ được dệt từ vải mạ vàng đủ để hỗ trợ tài chính cho một cuộc suy thoái. Họ thắt bím mái tóc vàng của mình và quấn nó trên đỉnh đầu theo kiểu na ná mốt tóc cột cao cổ điển. Họ đều xinh đẹp, và đều đáng sợ.

Tôi từng nhìn thấy những bức tượng sống – các người máy – nhiều lần trước đây. Đẹp xấu gì thì chúng gần như lúc nào cũng cố giết tôi.

“Ờ…” Tôi lùi lại một bước. “Ngài gọi mấy thứ này là gì? Krissy Kelly gì gì đó?”

“Chryseae celedon,” Apollo đáp. “Những ca sỹ vàng. Họ là nhóm nhạc hát bè cho ta!”

Tôi liếc Grover, lòng tự hỏi liệu đây có phải một trò đùa.

Grover chả hề cười. Miệng cậu ấy ngoác ra sửng sốt, cứ như mấy quý cô vàng kia là những chiếc hộp nhôm ngon lành, to bự nhất mà cậu từng thấy. “Tôi – tôi không nghĩ họ có thật!”

Apollo mỉm cười. “Chà, cũng vài thế kỷ rồi ta mới mang họ ra. Cậu biết đấy, họ mà biểu diễn thường xuyên quá thì sự kỳ diệu của họ sẽ giảm dần. Họ từng sống tại đền thờ của ta ở Delphi. Trời, họ có thể làm rung chuyển cả tòa nhà đó. Giờ ta chỉ dùng họ vào những dịp đặc biệt.”

Grover rơm rớm nước mắt. “Ngài mang họ tới mừng sinh nhật tôi?”

Apollo cười phá ra. “Không, ngốc ạ! Đêm nay ta tổ chức một buổi hòa nhạc trên Đỉnh Olympus. Mọi người đều tham dự! Chín Nàng Thơ sẽ mở màn, còn ta sẽ biểu diễn loạt ca khúc cả cũ lẫn mới. Ý ta là, không phải ta cần các celedon. Sự nghiệp hát solo của ta vốn vô cùng vẻ vang. Nhưng mọi người sẽ mong chờ được nghe những bản hit cổ điển mà ta hát cùng các cô gái: ‘Nhớ Nhung Nàng Daphne,’ ‘Nấc Thang Lên Olympus,’ ‘Atlantis Mái Nhà Thân Thương.’ Sẽ rất tuyệt vời đấy!”

Tôi cố không tỏ ra mắc ói. Trước đây tôi từng nghe Apollo làm thơ, và chỉ cần âm nhạc của anh ta dở ẹc bằng một nửa như thế thôi thì buổi hòa nhạc này sẽ thảm bại còn nhanh hơn tốc độ thần gió Aeolus di chuyển.

“Tuyệt,” tôi hờ hững bảo. “Thế rắc rối là gì?”

Nụ cười của Apollo tắt ngúm. “Nghe này.”

Anh ta quay người về phía các ca sỹ vàng của mình và giơ tay lên như một nhạc trưởng. Ngay lập tức, họ đồng thanh cất tiếng hát: “Laaaa!”

Đấy chỉ là một hợp âm, nhưng nó khiến lòng tôi tràn ngập niềm vui sướng. Tôi đột nhiên không thể nhớ nổi mình đang ở đâu hay đang làm gì. Nếu những cô ca sỹ vàng quyết định phanh thây tôi ngay lúc đó thì tôi cũng chẳng chống cự, miễn là họ tiếp tục hát. Không còn gì quan trọng đối với tôi, ngoại trừ thanh âm ấy.

Thế rồi các cô gái vàng ngừng hát. Cảm xúc kia trôi qua. Gương mặt họ lại trở thành khối kim loại lạnh lùng, xinh đẹp.

“Thật …” tôi nuốt khan. “Thật tuyệt vời.”

“Tuyệt vời?” Apollo nhăn mũi. “Họ chỉ có ba người! Giai điệu của họ nghe trống rỗng. Ta không thể biểu diễn mà không có đủ bốn người.”

Grover đang khóc nức nở vì sung sướng. “Họ quá đẹp. Họ thật hoàn hảo!”

Tôi khá mừng là Juniper không ở gần để nghe thấy, vì cô ấy thuộc kiểu người dễ ghen.

Apollo khoanh đôi tay rám nắng. “Họ không hoàn hảo, Cậu Thần Rừng à. Ta cần cả bốn người không thì buổi hòa nhạc hỏng mất. Xui xẻo thay, celedon thứ tư của ta đã mất tích sáng nay. Ta chẳng thể tìm thấy cô ấy ở bất cứ đâu.”

Tôi nhìn ba người máy vàng, họ đang nhìn chằm chằm Apollo, lặng lẽ chờ đợi mệnh lệnh. “Ờ … làm sao ca sỹ hát bè lại mất tích được?”

Apollo lại làm một động tác vẫy tay của nhạc trưởng, và các cô ca sỹ thở dài đồng đều ba nhịp. Âm thanh ấy thê lương tới độ tim tôi chùng cả xuống. Ngay khoảnh khắc đó, tôi chắc chắn rằng bản thân sẽ không bao giờ hạnh phúc nữa. Thế rồi, cũng nhanh chóng như lúc nó đến, cảm xúc đấy tiêu tan.

“Họ hết hạn bảo hành,” vị thần giải thích. “Hephaestus tạo ra họ cho ta từ thời cổ xưa, và họ hoạt động tốt … cho đến sau ngày hết hạn bảo hành hai-nghìn-năm. Nên tất nhiên là, BÙM! Người thứ tư bị chập mạch và chạy tới thành phố lớn.” Anh ta khoát tay bao quát vùng Manhattan. “Dĩ nhiên ta đã cố phàn nàn với Hephaestus, nhưng anh ta xử sự kiểu, ‘Chà, cậu có gói Sửa Chữa Phụ Trợ của ta không?’ Và ta cãi, ‘Ta không thèm cái thời hạn bảo hành thêm của anh!’ Rồi anh ta hành xử như thể tại ta mà nàng celedon hỏng, lại còn bảo đáng lẽ nếu ta mua gói Phụ Trợ thì đã có đường dây nóng phục vụ tận tình, nhưng–”

“Khoan, khoan, khoan.” Tôi chen ngang. Tôi thực lòng không muốn bị lôi vào cuộc cãi vả giữa thần-với-thần. Tôi có quá nhiều kinh nghiệm với chuyện đó rồi. “Nếu ngài biết cô celedon của ngài đang ở trong thành phố, sao ngài không thể tự đi kiếm lấy?”

“Ta đâu có thời gian! Ta phải diễn tập. Ta cần ghi ra nguyên một danh sách thiết bị và kiểm tra âm thanh nữa! Vả lại, đây là trách nhiệm của các anh hùng mà.”

“Làm chân sai vặt cho thần thánh,” tôi làu bàu.

“Chính xác.” Apollo dang rộng đôi tay. “Ta đoán celedon mất tích đang lang thang ở Quận Theater, tìm kiếm chỗ thích hợp để thử giọng. Các celedon thường sở hữu giấc mơ trở thành ngôi sao – được phát hiện, là tiêu đề của một vở nhạc kịch Broadway, hay mấy thứ tương tự vậy. Phần lớn ta có thể kiểm soát tham vọng của họ. Ý là ta đâu thể để họ chơi trội hơn, ha? Nhưng ta cam đoan không có ta ở quanh thì cô ấy sẽ nghĩ mình là Katty Perry kế nhiệm. Hai cậu cần tìm thấy cô ấy trước lúc cô ấy kịp gây rối. Nhanh lên đó! Buổi hòa nhạc diễn ra vào đêm nay và Manhattan là một hòn đảo rộng lớn.”

Grover giật giật chòm râu dê. “Thế … ngài muốn chúng tôi tìm cô ấy trong khi ngài tổng duyệt âm thanh?”

“Hãy nghĩ đấy là một ơn huệ,” Apollo nói. “Không chỉ cho ta, mà còn cho mọi dân thường ở Manhattan.”

“Ô.” Giọng Grover nhỏ dần. “Ôi không …”

“Gì?” tôi hỏi gặng. “Ôi không cái gì?”

Nhiều năm trước, Grover tạo ra mối dây linh cảm ma thuật giữa chúng tôi (lại một câu chuyện dài khác) và hai đứa có thể nhận biết cảm xúc của nhau. Nó không hẳn là đọc suy nghĩ, song tôi có thể nói cậu ấy đang khiếp sợ.

“Percy,” cậu ấy nói, “nếu nàng celedon ấy hát ở nơi công cộng, ngay giữa giờ cao điểm buổi chiều–”

“Cô ấy sẽ không ngừng gây ra hỗn loạn,” Apollo kết luận.

“Cô ấy có thể hát một bản tình ca, hoặc một bài hát ru, hay giai điệu ra trận ái quốc, và bất cứ âm thanh nào người thường nghe thấy…”

Tôi rùng mình. Một tiếng thở dài từ các cô gái vàng đã nhấn chìm tôi vào tuyệt vọng, dù có Apollo kiểm soát sức mạnh của họ. Tôi tưởng tượng một celedon lông bông hát vang giữa thành phố chật kín người, khiến họ lăn ra ngủ, hay quay qua yêu lẫn nhau, hoặc thúc giục họ đánh lộn.

“Phải chặn cô ấy lại,” tôi đồng ý. “Nhưng sao lại là chúng tôi?”

“Ta thích cậu!” Apollo cười toe toét. “Cậu đã chạm trán với các Siren. Lần này cũng không khác mấy. Chỉ cần nhét sáp vào tai. Ngoài ra, anh bạn Grover của cậu đây là một thần rừng. Cậu ta bẩm sinh có năng lực kháng cự âm nhạc ma thuật. Thêm nữa cậu ta biết chơi đàn lia.”

“Đàn lia nào?” tôi hỏi.

Apollo búng tay. Bỗng nhiên trên tay Grover là dụng cụ âm nhạc kỳ quặc nhất tôi từng thấy. Đế của nó là chiếc mai đồi mồi rỗng, làm tôi thật sự thấy tội cho con vật. Hai tay cầm bằng gỗ đánh bóng mọc ra một bên như sừng bò, với thanh chắn ở trên đầu cùng bảy sợi dây kéo dài từ thanh chắn đến đế. Nó trông tựa sự kết hợp giữa đàn hạc, đàn banjo, và rùa chết.

“Ôi!” Grover suýt nữa đánh rơi chiếc đàn lia. “Tôi không thể! Đây là của–”

“Phải,” Apollo hồ hởi đồng ý. “Đấy là cây đàn lia của riêng ta. Hiển nhiên nếu cậu phá hỏng nó, ta sẽ thiêu cháy cậu, nhưng ta chắc cậu sẽ cẩn thận! Cậu chơi được đàn lia, đúng không?”

“Ưm …” Grover gảy vài nốt nhạc mà nghe y hệt bài ca đưa tang.

“Cứ tập tiếp đi,” Apollo nói. “Các cậu sẽ cần phép thuật của cây đàn lia để bắt nàng celedon. Hãy để Percy đánh lạc hướng cô ấy trong khi cậu chơi.”

“Đánh lạc hướng cô ấy,” tôi lặp lại.

Cuộc tìm kiếm này càng nghe càng thấy tệ hơn. Tôi chả hiểu sao một chiếc đàn hạc mai rùa có thể đánh bại người máy bằng vàng, nhưng Apollo vỗ vai tôi như thể mọi chuyện đã được quyết định xong xuôi.

“Xuất sắc!” anh ta bảo. “Các cậu sẽ gặp ta ở Tòa nhà Empire State lúc hoàng hôn. Hãy mang về cho ta nàng celedon. Ta sẽ dùng không cách này thì cách khác thuyết phục Hephaestus sửa chữa cô ấy. Chỉ cần đừng trễ giờ! Ta không thể để khán giả của mình chờ đợi. Và nhớ đấy, không được gây ra vết xước nào cho cây đàn lia.”

Rồi thì vị thần mặt trời cùng dàn ca sỹ vàng hát bè của anh ta biến mất giữa đám mây hơi nước.

“Chúc mừng sinh nhật tôi ơi,” Grover rên rỉ, và gảy một nốt ai oán trên chiếc đàn lia.

.

Chúng tôi đón xe điện ngầm đến Quảng trường Thời đại. Chúng tôi dự tính đấy là nơi lý tưởng để bắt đầu tìm kiếm. Nó nằm ngay giữa Quận Theater và đầy những nghệ sỹ đường phố quái đản lẫn cả tỉ khách du lịch, nên nó là nơi phù hợp để một diva vàng lôi kéo sự chú ý cho bản thân.

Grover chẳng buồn cải trang. Chiếc áo thun trắng của cậu in dòng chữ: Thần Pan Sẽ Làm Gì? Chóp sừng của cậu ấy nhú ra khỏi mái tóc loăn xoăn. Thông thường cậu mặc quần jean để giấu hai chân rậm lông cùng đôi giầy vừa khít cho bộ móng guốc, tuy nhiên hôm nay từ phần thắt lưng trở xuống của cậu hoàn toàn là một chú dê.

Tôi ngờ nó cũng chẳng thành vấn đề. Phần lớn người thường không thể nhìn thấu Màn Sương Mù, thứ che giấu hình dáng thật của đám quái vật. Grover không cải trang như ngày thường thì con người cũng phải nhìn rất kỹ mới nhận ra cậu là thần rừng, mà ngay cả thế họ cũng sẽ chả chớp mắt lấy một lần. Dẫu sao chăng nữa, đây là New York mà.

Trong lúc chen lấn qua đám đông, tôi mải tìm kiếm ánh sáng vàng, lòng hy vọng sẽ phát hiện nàng celedon mất tích, nhưng quảng trường chật kín như mọi ngày. Một tay chỉ mặc độc đồ lót cùng cây guitar đang chụp hình với vài du khách. Cảnh sát đứng tụ tập ở góc phố, mặt chán chường. Tại Broadway và West Forty-Ninth, đoạn đường cắt ngang bị chắn và một nhóm phụ trách thiết bị đang dàn dựng sân khấu gì đấy. Nhà thuyết giáo, kẻ bán vé, và người bán hàng rong la hét qua lại, cố gắng thu hút sự chú ý. Âm nhạc ồn ã phát ra từ hàng tá loa phóng thanh, nhưng tôi không nghe thấy tiếng hát ma thuật nào hết.

Grover đưa tôi một viên sáp ấm để đút tai khi cần thiết. Cậu kể mình luôn giữ một ít phòng thân, để làm kẹo cao su, khiến tôi chả hào hứng dùng nó tẹo nào.

Cậu đụng trúng một chiếc xe đẩy bán bánh quy dạo rồi chệch choạng lùi lại, tay ôm khư khư cây đàn lia của Apollo.

“Cậu biết xài cái đó hả?” tôi hỏi. “Ý tớ là, nó có thể hô biến phép thần thông quảng đại nào thế?”

Mắt Grover mở lớn. “Cậu không biết sao? Thần Apollo đã dựng nên bức tường thành Troy chỉ bằng cách chơi cây đàn lia này đó. Chơi đúng bản nhạc thì nó gần như có thể tạo ra bất kỳ thứ gì!”

“Như một chiếc lồng cho nàng celedon hả?” tôi hỏi.

“Ừa … đúng vậy!”

Cậu ấy nghe không tự tin lắm, và tôi chả dám chắc mình muốn cậu ấy chơi Guitar Hero[2] bằng đàn banjo mai rùa thần thánh. Dĩ nhiên, Grover có thể làm chút phép thuật với ống sáo sậy của cậu ấy. Vào ngày đẹp trời, cậu ấy khiến cây cối mọc lên để quấn chặt kẻ thù. Vào ngày xấu trời, cậu chỉ nhớ nổi nhạc Justin Bieber, thứ chẳng được tích sự gì ngoài làm tôi đau đầu.

Tôi cố gắng nghĩ ra một kế hoạch. Tôi ước gì bạn gái mình, Annabeth, ở đây. Cô ấy mới là nhà chiến lược. Xui xẻo thay, cô đang đi thăm cha mình ở San Francisco.

Grover túm tay tôi. “Nhìn kìa.”

Tôi nhìn theo ánh mắt cậu. Phía bên kia quảng trường, tại sân khấu ngoài trời, công nhân chạy nhốn nháo khắp nơi, lắp đặt đèn trên giàn giáo, chuẩn bị giá đỡ micro, và cắm điện cho những cái loa khổng lồ. Họ hẳn đang chuẩn bị buổi duyệt trước cho vở nhạc kịch Broadway nào đấy.

Rồi tôi thấy cô ấy – một quý cô vàng đang bước đến bục biểu diễn. Cô trèo qua hàng rào cảnh sát bao lấy ngã tư, chen chúc giữa những công nhân hoàn toàn ngó lơ cô, và hướng thẳng đến các bậc thang sân khấu. Cô liếc nhìn đám đông ở Quảng trường Thời đại rồi mỉm cười, như thể đang tưởng tượng cảnh vỗ tay cuồng nhiệt của họ. Sau đấy cô đi tới chỗ chiếc micro trung tâm.

“Ôi, thần linh ơi!” Grover kêu the thé. “Nếu hệ thống âm thanh đó được bật lên…”

Tôi nhét viên sáp vào tai khi chúng tôi chạy thục mạng đến sâu khấu.

.

Đánh nhau với người máy đã đủ tệ. Đánh nhau với người máy giữa biển người thường là cách thức dẫn đến thảm họa. Tôi chả muốn vừa lo lắng về sự an toàn của dân thường lẫn bản thân vừa tìm kế bắt giữ nàng celedon kia. Tôi cần nghĩ ra cách sơ tán Quảng trường Thời đại mà không làm đám đông hoảng loạn.

Trong lúc chúng tôi len lỏi qua dòng người, tôi túm lấy vai viên cảnh sát ở gần mình nhất.

“Này!” tôi kêu ông. “Đoàn xe hộ tống tổng thống sắp tới! Mấy ông tốt hơn hết nên giải tán người trên phố!”

Tôi chỉ xuống Đại lộ số Bảy. Dĩ nhiên chả có đoàn hộ tống nào, nhưng tôi cố hết sức tưởng tượng ra nó.

Thấy chưa, vài á thần thật sự có thể điều khiển Màn Sương Mù. Họ có thể khiến người thường nhìn thấy những gì họ muốn. Tôi không giỏi trò đấy lắm, nhưng cũng đáng để thử. Mấy cuộc viếng thăm của tổng thống cũng khá phổ biến, nhất là với việc Liên hiệp quốc ở trong thành phố, nên tôi đoán viên cảnh sát sẽ bị thuyết phục.

Và dường như đúng vậy thật. Ông nhìn theo hướng đoàn xe limo tưởng tượng của tôi, làm bộ mặt chán ghét, rồi nói gì đó vào máy điện đàm. Do có sáp trong tai nên tôi không nghe được lời ông nói song toàn bộ cảnh sát tại quảng trường dần dần gom đám đông về hai bên đường.

Không may là, cô nàng celedon đã tới được sân khấu trung tâm.

Chúng tôi vẫn còn cách đấy mười lăm mét khi cô cầm chiếc micro và gõ lên nó. BÍP, BÍP, BÍP vang khắp phố xá.

“Grover,” tôi thét, “cậu nên bắt đầu chơi cái đàn lia đó thì hơn.”

Nếu cậu có trả lời thì tôi cũng không nghe thấy. Tôi chạy nước rút tới sân khấu. Các công nhân quá bận rộn tranh cãi với cảnh sát để mà cản tôi lại. Tôi nhảy vọt lên những bậc thang, lấy cây bút trong túi và mở nắp nó ra. Thanh kiếm của tôi, Thủy Triều, hiện nguyên hình, dù tôi không chắc nó có giúp được mình không. Apollo sẽ chả lấy làm vui vẻ gì nếu tôi chặt đầu ca sỹ hát bè của anh ta.

Tôi đang cách nàng celedon cỡ năm mét khi vô số thứ diễn ra cùng lúc.

Cô ca sỹ vàng gào to một nốt mạnh mẽ tới mức tôi có thể nghe thấy nó qua lớp sáp. Giọng cô ấy buồn đến xé lòng, đong đầy nỗi khát khao. Dù nó đã bị nghẹn bớt bởi viên sáp, nó khiến tôi muốn đổ khụy xuống và khóc nức nở – đây chính là hành động mà vài ngàn người quanh Quảng trường Thời đại làm. Xe cộ dừng lại. Cảnh sát với du khách quỳ gối than khóc, người này ôm lấy người kia để an ủi lẫn nhau.

Chợt tôi nhận thức rằng có một âm thanh khác – Grover, đang cuống cuồng đánh cây đàn lia. Tôi không hẳn nghe ra nó, nhưng tôi cảm nhận được cơn chấn động ma thuật lan tỏa khắp không gian, làm lay chuyển sân khấu dưới chân tôi. Nhờ mối dây linh cảm, tôi thoáng nắm bắt được suy nghĩ của Grover. Cậu ấy đang hát về các tường thành, gắng sức triệu hồi một cái hộp bao quanh nàng celedon.

Tin tốt: Đại để nó cũng hiệu nghiệm. Một bức tường gạch mọc lên từ khoảng sân khấu giữa tôi và cô nàng celedon, đánh đổ giá để micro và cắt ngang bài hát của cô ấy. Tin xấu: Ngay khoảnh khắc tôi hiểu được chuyện gì đang diễn ra, tôi chẳng dừng nổi đà di chuyển của mình nữa. Tôi đâm thẳng vào bức tường, nó không được trát vữa nên tôi nhanh chóng ngã đè lên trên nàng celedon cùng cỡ hàng ngàn viên gạch.

Mắt tôi giàn giụa nước. Mũi tôi như sắp gãy tới nơi. Trước lúc tôi có thể hoàn hồn, cô nàng celedon chật vật thoát khỏi đống gạch và đẩy tôi ra. Cô giơ tay lên trong niềm hân hoan chiến thắng cứ như toàn bộ mọi chuyện là màn biểu diễn được sắp đặt.

Cô hát, “Ta-daaaaah!”

Giọng cô không còn được phóng đại, nhưng nó vẫn truyền đi. Dân thường ngừng khóc lóc rồi đứng dậy, vỗ tay cổ vũ cô nàng celedon.

“Grover!” tôi hét, không chắc liệu cậu ấy có nghe thấy. “Chơi bài gì khác đi!”

Tôi nhặt thanh kiếm của mình và gắng gượng đứng lên. Tôi nhoài tới xô ngã quý cô vàng, nhưng tôi giống như đang xô ngã cái cột đèn hơn. Cô ấy lờ tôi và cất tiếng hát.

Trong lúc tôi chơi đấu vật với cô nàng để ráng khiến cô mất thăng bằng, nhiệt độ trên sân khấu tăng dần. Lời ca của nàng celedon là tiếng Hy Lạp cổ, nhưng tôi hiểu lõm bõm vài từ: Apollo, ánh sáng mặt trời, ngọn lửa hoàng kim. Nó từa tựa bài ngợi ca dành tặng vị thần. Làn da kim loại của cô nóng lên. Tôi ngửi thấy mùi từ thứ gì đó đang cháy và nhận ra là áo sơ-mi mình mặc.

Tôi loạng choạng buông cô nàng ra, quần áo tôi cháy âm ỉ. Viên sáp đã tan chảy khỏi tai tôi nên tôi có thể nghe rõ bài hát của cô ấy. Khắp Quảng trường Thời Đại, mọi người đổ quỵ vì nhiệt lượng.

Ở phía bên kia, Grover điên cuồng chơi đàn lia, nhưng cậu quá căng thẳng để mà tập trung.

Vài viên gạch rơi lác đác xuống từ bầu trời. Một trong những loa phát thanh trên sân khấu biến thành con gà. Một dĩa enchilada[3] xuất hiện dưới chân nàng celedon.

“Không ích gì cả!” Tôi vượt qua cơn đau do nhiệt độ tăng để rống lên. “Hát về mấy cái cũi! Hay vải nhét mồm ấy!”

Không khí như ở trong lò cao. Nếu cô nàng celedon cứ tiếp tục thế này, khu vực trung tâm thành phố sẽ bốc cháy. Tôi không đủ sức để chơi tử tế nữa. Vừa lúc cô nàng celedon chuyển sang lời hai, tôi vung kiếm về phía cô ta.

Cô ta né với tốc độ đáng kinh ngạc. Mũi kiếm của tôi trượt cách mặt cô ta chỉ một inch. Tôi đã xoay xở buộc cô ta ngừng hát, và cô chả lấy làm hài lòng gì về chuyện đó. Cô ta căm phẫn nhìn tôi trừng trừng, rồi tập trung vào thanh kiếm của tôi. Nỗi sợ hãi thoáng qua trên gương mặt kim loại của cô. Phần đông các sinh vật kỳ bí đủ hiểu biết để nể sợ đồng Celestial, vì nó có thể khiến họ bốc hơi khi vừa chạm vào.

“Đầu hàng thì tôi sẽ không làm hại cô,” tôi nói. “Chúng tôi chỉ muốn mang cô về cho thần Apollo.”

Cô ta dang rộng đôi tay. Tôi e ngại cô ta chuẩn bị hát nữa, nhưng thay vào đấy cô nàng celedon biến đổi hình dạng. Hai cánh tay mọc ra đôi cánh vàng mượt mà. Khuôn mặt cô ta kéo dài  thành chiếc mỏ. Cơ thể cô ta thu nhỏ lại cho tới hồi tôi đang nhìn chòng chọc một con chim kim loại bụ bẫm có kích thước cỡ chim cút. Trước lúc tôi kịp phản ứng, cô nàng celedon bay vút lên cao và tiến thẳng tới đỉnh tòa nhà gần nhất.

Grover loạng choạng đi lên sân khấu đứng cạnh tôi. Khắp Quảng trường Thời đại, những người ngất xỉu vì nhiệt lượng đang dần hồi phục. Mặt đường vẫn còn bốc hơi. Cảnh sát bắt đầu la hét các mệnh lệnh, giờ họ thật sự nghiêm túc phong tỏa khu vực. Không ai để ý tới chúng tôi cả.

Tôi dõi theo con chim vàng bay lên theo đường xoắn ốc cho đến lúc cô ta biến mất quanh biển quảng cáo cao nhất của Tháp Times. Các bạn ắt đã thấy hình của tòa nhà: cái tòa cao mỏng mà gắn đầy quảng cáo phát sáng cùng những màn hình cỡ đại.

Nói thật lòng thì, tôi không cảm thấy xuất chúng cho lắm. Tôi có sáp nóng chảy khỏi tai. Tôi là món thịt tái vừa mới được nướng bằng than. Mặt tôi cảm giác như thể nó bị giộng vào một bức tường gạch … mà đúng thế thật. Có vị sắt của máu trong miệng tôi, và tôi đang dần dà thật tâm căm ghét âm nhạc. Cả lũ chim cút nữa.

Tôi quay sang Grover. “Cậu biết cô ta có thể biến thành chim không?”

“Ừa, thì … Chắc tớ quên.”

“Hay ghê.” Tôi di di dĩa enchilada dưới chân mình. “Lần tới cậu có thể cố gắng triệu hồi cái gì hữu ích hơn không?”

“Xin lỗi,” cậu ấy lẩm nhẩm. “Căng thẳng khiến tớ đói bụng. Vậy giờ chúng ta làm gì đây?”

Tôi ngước nhìn đỉnh Tháp Times. “Cô gái vàng thắng hiệp một. Giờ là hiệp hai.”

.

Các bạn chắc đang tự hỏi sao tôi không nhét thêm sáp vào tai. Thứ nhất là, tôi đâu có tí sáp nào dính túi. Hơn nữa, sáp chảy khỏi tai khiến tôi đau điếng. Và chắc phần nào trong tôi đang nghĩ: Hê, mình là một á thần. Lần này mình đã chuẩn bị kỹ càng. Mình có thể đối đầu với âm nhạc, theo đúng nghĩa đen.

Grover quả quyết với tôi rằng cậu ấy đã am tường cây đàn lia. Sẽ không có thêm món enchilada hay gạch rớt xuống từ trên trời. Tôi chỉ việc tìm cô nàng celedon, đánh úp cô ta, rồi đánh lạc hướng bằng cách … ờm, khúc đó tôi chưa nghĩ ra.

Chúng tôi đi thang máy lên tầng thượng và tìm thấy cầu thang dẫn đến mái nhà. Tôi ước mình biết bay, nhưng đấy không phải một trong các năng lực của tôi, còn anh bạn pegasus Blackjack thì dạo này chả đáp lại lời kêu gọi giúp đỡ từ tôi. (Cậu ta bị phân tâm vào mùa xuân khi đang tìm kiếm trên bầu trời những quý cô pegasus dễ thương.)

Một khi đã đặt chân lên nóc nhà thì rất dễ phát hiện cô nàng celedon. Cô ta đang trong hình hài con người, đứng ở mép tòa nhà với đôi tay dang rộng và hát dạ khúc cho Quảng trường Thời đại bằng bài “New York, New York” theo phong cách của chính mình.

Tôi ghét cái bài đó lắm. Tôi chẳng biết người nào thật sự xuất thân từ New York mà không ghét nó, song nghe cô ta hát còn làm tôi điên tiết hơn hàng trăm lần.

Dẫu sao chăng nữa, cô ta đang quay lưng về phía chúng tôi, nên chúng tôi có lợi thế. Tôi thèm thuồng muốn lẻn ra sau lưng cô ta rồi đẩy cô ta xuống, nhưng cô nàng này mạnh tới mức trước đấy tôi chả nhích nổi cô ta lấy một li. Bên cạnh đó, cô ta chắc sẽ biến thành chim thôi và … Hừm. Chim sao.

Một kế hoạch hình thành trong đầu tôi. Thật, thỉnh thoảng tôi cũng nghĩ ra vài ý tưởng.

“Grover,” tôi bảo, “cậu có thể dùng đàn lia để triệu hồi một cái lồng chim không? Một cái thật cứng cáp, làm từ đồng Celestial ấy?”

Cậu ấy mím môi. “Chắc được, nhưng chim chóc không nên bị giam cầm, Percy. Chúng phải được tự do! Chúng phải bay lượn và–” Cậu ấy nhìn cô nàng celedon. “Ồ, ý cậu là–”

“Phải.”

“Tớ sẽ cố.”

“Tốt,” tôi nói. “Hãy đợi ám hiệu của tớ. Cậu còn giữ cái khăn bịt mắt của trò Gắn Đuôi Cho Người chứ?”

Cậu ấy đưa tôi miếng vải. Tôi thu nhỏ thanh kiếm thành dạng bút bi rồi đút nó vào túi quần jean. Tôi cần hai tay không cho trò này. Tôi rón rén lại gần cô nàng celedon, kẻ đang gào to đoạn điệp khúc cuối cùng.

Dù cô ta đang quay mặt về hướng khác, âm nhạc của cô ta thúc giục tôi nhảy múa (mà, tin tôi đi, các bạn sẽ không bao giờ muốn xem đâu). Tôi buộc mình tiếp tục tiến bước, nhưng chống cự âm nhạc từ cô ta hệt như chen lấn đi qua đống rèm cửa nặng nề.

Mưu mẹo của tôi rất đơn giản: bịt mồm cô nàng celedon. Cô ta sẽ biến thành chim để cố chạy thoát. Tôi sẽ túm đầu rồi nhét cô ta vào cái lồng chim. Kế hoạch này sao chệch hướng được chứ ha?

Khi dòng cuối của “New York, New York” cất lên, tôi nhảy chồm lên lưng cô ca sỹ, khóa chân mình quanh eo cô ta và giật mạnh dải băng ngang miệng cô nàng như đóng dây cương ngựa.

Màn kết bài hoành tráng của cô ta bị cắt ngắn thành “New Yor – ứ!”

“Grover, ngay bây giờ!” tôi thét.

Cô nàng celedon loạng choạng về phía trước. Đầu óc tôi quay cuồng nhìn khung cảnh hỗn loạn của Quảng trường Thời đại ở bên dưới – cảnh sát cố gắng giải tán đám đông, hàng lớp du khách ngẫu hứng thực hiện các động tác đá cao như Radio City Rockettes[4]. Các tấm biển quảng cáo điện tử dọc thân Tháp Time nom như thể một máng trượt nước đầy màu sắc, vô cùng dốc, với đích đến ở đáy của nó không đâu khác ngoài mặt đường thô cứng.

Nàng celedon lảo đảo lùi lại, quơ quào tay chân và ú ớ qua miếng vải bịt miệng.

Grover tuyệt vọng gảy chiếc đàn lia. Những sợi dây đàn tỏa ra làn sóng ma thuật khắp không gian, nhưng giọng Grover run run mất bình tĩnh.

“À ừ, chim ơi!” cậu ấy líu lo. “Là, lá, la! Chim ơi hãy bay vào lồng! Cái lồng chắc thiệt chắc! Chim ơi chim!”

Với lời ca như vậy cậu ấy sẽ chả thắng giải Grammy nào cả, còn tay tôi đang xụi dần. Cô nàng celedon rất mạnh. Tôi từng cưỡi một con Minotaur, và quý cô vàng đây chí ít cũng khó kìm kẹp ngang ngửa.

Cô nàng celedon xoay người lại, cố ném tôi đi. Bàn tay cô ta cặp lấy cẳng tay tôi rồi siết chặt. Cơn đau nhói lên ở vai tôi.

Tôi gào, “Grover, nhanh lên!” Nhưng với hàm răng nghiến chặt, từ ngữ tuôn ra nghe như, “Gừ gừ – nhoàm.”

“Chim bay vào lồng!” Grover gảy một dây cung khác. “Là, lá, la, lồng chim ơi!”

Kinh ngạc xiết bao, một cái lồng chim tỏa sáng lung linh thành hình ở mép nóc nhà. Tôi quá bận rộn với việc bị quăng quật để có thể nhìn kỹ hơn, nhưng xem chừng Grover đã làm rất tốt. Chiếc lồng vừa đủ lớn cho một con vẹt, hay con chim cút béo ú, các chấn song phát sáng mờ mờ … là đồng Celestial.

Giờ thì giá mà tôi có thể ép cô nàng celedon hóa thành chim. Xui xẻo làm sao, cô nàng không chịu hợp tác. Cô ta quay tròn thật nhanh, khiến tôi buông tay ra và đẩy tôi rớt khỏi tòa nhà.

Tôi cố đừng hoảng loạn. Buồn thay, đây không phải lần đầu tiên tôi bị ném khỏi một tòa nhà chọc trời.

Tôi rất muốn kể cho các bạn rằng tôi đã thực hiện vài động tác nhào lộn ngầu lòi, tóm lấy mép tấm bảng quảng cáo, rồi nhảy tót lại lên mái nhà bằng cú xoay ba vòng điệu nghệ.

Mơ đi. Trong lúc tôi nảy khỏi màn hình cỡ đại đầu tiên, chả hiểu từ đâu một thanh giằng kim loại móc vào thắt lưng của tôi và giúp tôi ngừng rơi. Nó tiện thể tặng luôn tôi đôi giày cao gót đế bằng tuyệt đỉnh nhất mọi thời đại. Thế rồi, làm như sự thể chưa đủ tệ, động lượng khiến tôi xoay tròn lộn ngược và kéo tuột chiếc quần của tôi.

Tôi đâm đầu thẳng xuống Quảng trường Thời đại, tay tôi điên loạn quơ quào để tìm bất kỳ thứ gì giúp tôi giảm tốc độ. Tôi gặp may vì đỉnh của biển quảng cáo kế tiếp có một thanh chắn ngang nó, chắc để dành cho những nhân viên bảo trì cực kỳ quả cảm móc dụng cụ của họ vào.

Tôi xoay xở tóm được nó rồi búng người lên về bên phải. Cánh tay tôi gần như bị giật khỏi khớp, song bằng cách này hay cách khác tôi vẫn giữ chặt. Và đấy là nguyên do tôi treo mình lủng lẳng trên biển quảng cáo ở Quảng trường Thời đại mà còn không mặc quần.

Để trả lời câu hỏi tiếp theo của các bạn: boxer[5]. Quần boxer màu xanh dương trơn. Không có hình mặt cười. Không điểm xuyết trái tim gì sất.

Cứ cười đi. Nó thoải mái hơn quần lót bó nhiều.

Cô nàng celedon mỉm cười với tôi từ đỉnh mái nhà, cách cỡ năm đến sáu mét phía trên đầu tôi. Ngay phía dưới cô ta, chiếc quần jean của tôi lòng thòng trên thanh kim loại, nó tung bay trong gió hệt như đang vẫy chào tạm biệt tôi. Tôi không thể thấy Grover. Nhạc của cậu ấy đã ngưng.

Tay tôi yếu dần. Mặt đường cách đấy khoảng trên hai trăm mét, nên chắc tôi sẽ dư dả thời gian la hét trong lúc chuẩn bị tan xương nát thịt. Màn hình cỡ đại phát sáng đang chậm rãi đun nóng bụng tôi.

Khoảng thời gian tôi đu đưa ở đó, cô nàng celedon cất tiếng hát một bài ca đặc biệt chỉ dành cho tôi. Cô ta hát về chấp thuận buông xuôi, dẹp hết mọi nỗi lo, nghỉ ngơi bên bờ sông. Tôi không nhớ chính xác ca từ, nhưng các bạn hiểu ý tôi rồi đấy.

Tất cả những gì tôi có thể làm là giữ chặt. Tôi không muốn rơi xuống, nhưng âm nhạc của cô nàng celedon dâng trào trong tôi, phá hủy quyết tâm của tôi. Tôi tưởng tượng mình là đà bay xuống một cách an toàn. Tôi sẽ đáp trên bờ một dòng sông chảy êm đềm, nơi tôi có thể có buổi dã ngoại thư giãn dễ chịu cùng bạn gái mình.

Annabeth.

Tôi nhớ lần mình cứu Annabeth khỏi chị em nhà Siren tại Biển Quái Vật. Tôi đã ôm cô trong lúc cô khóc và vật lộn, cố gắng bơi đến cái chết của chính mình chỉ vì cô nghĩ mình sẽ tới một miền đất hứa an lành nào đó.

Giờ tôi tưởng tượng cảnh cô ôm lại tôi. Tôi có thể nghe thấy những lời cô ấy sẽ nói: Đấy là một cái bẫy, Óc Tảo Biển! Cậu phải bẫy lại cô ta không thì cậu sẽ chết. Và nếu cậu chết, tớ sẽ không bao giờ tha thứ cho cậu!

Những lời đó phá vỡ bùa mê của cô nàng celedon. Cơn giận dữ của Annabeth đáng sợ bội phần so với hầu hết lũ quái vật, cơ mà đừng mách cô ấy là tôi đã nói thế nhé.

Tôi ngước nhìn chiếc quần jean, thứ treo lủng lẳng vô tích sự phía trên đầu tôi. Thanh kiếm đang ở dạng bút bi của tôi yên vị trong túi quần, mà ở đấy thì nó chả giúp được gì tôi cả. Grover lại bắt đầu hát về lũ chim, nhưng không hiệu nghiệm. Hình như cô nàng celedon chỉ biến thành chim khi hoảng hốt.

Chờ đã …

Quá tuyệt vọng, tôi thực thi Kế Hoạch Ngu Xuẩn Phiên Bản 2.0.

“Này!” tôi gọi với lên. “Cô thật tuyệt vời, tiểu thư Celedon ơi! Cho tôi xin chữ ký của cô trước khi chết được không?”

Cô nàng celedon ngừng hát giữa chừng. Cô ta trông ngạc nhiên, rồi mỉm cười hài lòng.

“Grover!” tôi gọi. “Lại đây!”

Nhạc từ cây đàn lia ngưng bặt. Đầu Grover ló ra từ rìa tòa nhà. “Ối, Percy … tớ – tớ xin lỗi–”

“Không sao đâu!” tôi vừa cười giả lả, vừa dùng mối dây linh cảm của hai đứa để nói cậu ấy biết tôi thật sự cảm thấy thế nào. Tôi không thể nhắn gửi những suy nghĩ hoàn chỉnh, nhưng tôi cố truyền tải ý tưởng tổng thể: Cậu ấy cần phải sẵn sàng. Cậu ấy phải nhanh chân lẹ tay. Tôi hy vọng cậu ấy giỏi bắt chim.

“Cậu có bút với giấy không?” tôi hỏi cậu ấy. “Tớ muốn chữ ký của quý cô đây trước lúc nhắm mắt xuôi tay.”

Grover chớp mắt. “Ừa … trời. Tớ không mang theo. Mà chẳng phải trong túi quần jean của cậu có một cây bút đó sao?”

Thần. Rừng. Cừ. Nhất. Mọi. Thời. Đại. Cậu ấy hiểu rõ kế hoạch.

“Đúng ha!” tôi khẩn nài ngước nhìn cô nàng celedon. “Làm ơn? Thỉnh cầu cuối đời tôi đấy? Cô có thể lấy cây bút khỏi túi quần jean tôi rồi ký lên chiếc quần không? Được vậy thì tôi có thể mãn nguyện ra đi.”

Tượng vàng không thể đỏ mặt, nhưng cô nàng celedon trông thỏa mãn cực độ. Cô ta cúi xuống để lấy quần jean của tôi, và rút cây bút ra.

Tôi nín thở. Tôi chưa từng thấy Thủy Triều trong tay một quái vật bao giờ. Nếu kế hoạch bất thành, nếu cô ta nhận ra đây là bẫy, cô ta có thể giết Grover. Lưỡi kiếm đồng Celestial hoàn toàn đủ khả năng xẻ ngọt thần rừng.

Cô ta vân vê cây bút cứ như bản thân chưa từng dùng qua cây nào cả.

“Cô phải mở nắp mới được,” tôi khuyên. Mấy ngón tay của tôi bắt đầu lỏng ra.

Cô ta đặt chiếc quần jean lên gờ tường, cạnh bên cái lồng chim. Cô ta mở nắp bút và Thủy Triều hiện nguyên hình.

Nếu không phải tôi sắp chết tới nơi, đấy sẽ là khung cảnh hài hước nhất tôi từng chứng kiến. Các bạn biết những hộp kẹo chơi khăm có con rắn đồ chơi cuộn mình bên trong chứ?

Nó giống như dõi theo một người mở loại hộp đó ra, nhưng thay vì rắn đồ chơi thì là thanh gươm dài gần cả mét.

Thanh kiếm Celestial dài ra hết cỡ và cô nàng celedon ném nó đi, nhảy giật lùi cùng tiếng ré nghe không-được-đầy-nhạc-tính lắm. Cô ta hóa thành một con chim, nhưng Grover đã sẵn sàng. Cậu buông chiếc đàn lia của Apollo ra và túm con chim cút núc ních bằng cả hai tay.

Grover nhét cô ta vào chiếc lồng rồi sập cửa. Cô nàng celedon phát điên, mồm kêu quang quác còn cánh đập liên hồi, song cô ta không có đủ không gian để biến lại thành dạng người, và trong dạng chim – đội ơn các vị thần – dường như giọng cô ta chả sở hữu tí ma lực nào cả.

“Làm tốt lắm!” tôi gọi với lên chỗ Grover.

Cậu ấy nom phát bệnh. “Tớ nghĩ mình vừa làm xước đàn lia của thần Apollo. Tớ lại còn mới giam cầm một con chim. Đây đúng là sinh nhật tệ hại nhất.”

“Mà nè,” tôi nhắc cậu ấy, “tớ sắp chết tan xác đây này.”

“Á!” Grover nhặt cây đàn lia và mau chóng chơi một giai điệu. Giờ cậu không còn đối đầu với hiểm nguy, con quái vật thì ở trong lồng, nên coi bộ cậu chẳng gặp khó khăn gì trong việc sử dụng phép thuật của cây đàn lia. Đúng chuẩn Grover. Cậu ấy triệu hồi một sợi dây thừng rồi ném nó cho tôi. Cậu xoay xở tìm cách kéo tôi lên nóc nhà, nơi tôi ngã quỵ xuống.

Bên dưới chúng tôi, Quảng trường Thời đại vẫn trong cảnh hỗn loạn toàn diện. Du khách thơ thẩn khắp chốn. Cảnh sát giải tán lần cuối cuộc trình diễn nhảy múa với các động tác đá cao. Vài chiếc xe bốc cháy, còn sân khấu ngoài trời bị giáng cấp thành đống mồi lửa, gạch vữa, lẫn với thiết bị âm thanh hỏng hóc.

Phía bên kia Sông Hudson, mặt trời đang lặn. Tất cả những gì tôi muốn làm là nằm xuống ngay trên mái nhà và hưởng thụ cảm giác mình còn sống. Nhưng công việc của chúng tôi chưa hoàn tất.

“Chúng ta cần trả lại cô nàng celedon cho Apollo,” tôi nói.

“Ừ,” Grover đồng ý. “Nhưng, à … có lẽ cậu nên mặc quần vào trước?”

.

Apollo đang chờ chúng tôi tại sảnh Tòa nhà Empire State. Ba cô ca sỹ vàng căng thẳng đi đi lại lại phía sau anh ta.

Khi thấy chúng tôi, mặt anh ta sáng rỡ – theo đúng nghĩa đen. Một quầng sáng bao phủ quanh đầu anh ta.

“Xuất sắc!” Anh ta nhận lấy cái lồng chim. “Ta sẽ bảo Hephaestus sửa cô ấy, và lần này ta sẽ không chấp nhận bất cứ lời biện hộ nào về hết hạn bảo hành. Buổi biểu diễn của ta còn có nửa tiếng thôi là khai màn!”

“Đừng khách sáo,” tôi nói.

Apollo lấy lại cây đàn lia từ Grover. Nét mặt vị thần nổi cơn giông tố đầy nguy hiểm. “Ngươi làm xước nó.”

Grover thút thít. “Thưa thần Apollo–”

“Đó là cách duy nhất để bắt cô nàng celedon,” tôi can thiệp. “Hơn nữa, đánh bóng lại nó là được. Hãy bảo thần Hephaestus làm. Ngài ấy còn nợ ngài, đúng không?”

Trong thoáng chốc, tôi nghĩ Apollo sẽ thiêu chúng tôi ra tro, nhưng rốt cuộc anh ta chỉ càu nhàu. “Ta đoán cậu nói đúng. À, hai cậu làm tốt lắm! Để thưởng công, các cậu được mời xem ta biểu diễn trên Đỉnh Olympus!”

Grover và tôi liếc nhìn nhau. Xúc phạm một vị thần là việc làm nguy hiểm, nhưng điều cuối cùng tôi muốn làm là nghe thêm cả đống nhạc nhẽo.

“Chúng tôi không xứng đáng,” tôi xạo. “Chúng tôi muốn lắm cơ, thật đó, nhưng ngài biết đấy, có khi chúng tôi sẽ bị nổ tung nếu nghe âm nhạc thần thánh của ngài với âm lượng cực đại.”

Apollo trầm tư gật đầu. “Nói cũng phải. Các cậu mà nổ tung thì sẽ làm loãng buổi trình diễn của ta mất. Cậu thật tế nhị.” Anh ta cười toét miệng. “Chà, vậy ta đi đây. Chúc mừng sinh nhật, Percy!”

“Là sinh nhật của Grover chứ,” tôi sửa lời, nhưng Apollo cùng các ca sỹ của anh ta đã vụt biến giữa ánh sáng hoàng kim.

“Ngày nghỉ mà thế đấy,” tôi nói, quay mặt lại nhìn Grover.

“Về Công viên Prospect chứ?” cậu đề nghị. “Juniper chắc đang lo phát sốt.”

“Ừa,” tôi đồng ý. “Và tớ đang cực kỳ đói bụng.”

Grover hăng hái gật đầu. “Nếu chúng ta khởi hành ngay bây giờ, chúng ta có thể đón Juniper và tới Trại Con Lai kịp giờ ca hát tập thể. Họ còn có bánh s’more[6] nữa!”

Tôi nhăn mặt. “Làm ơn, không ca hát tập thể gì hết. Nhưng bánh s’more thì được.”

“Đồng ý!” Grover kêu.

Tôi vỗ vai cậu ấy. “Đi nào, chàng điệp viên. Sinh nhật cậu chưa biết chừng cũng không đến nỗi tệ lắm.”


Chú thích

[1] Nguyên gốc là Pin the Tail on the Human, nhại từ pin the tail on the donkey – một trò chơi của trẻ con hay diễn ra vào tiệc sinh nhật hoặc các buổi tụ tập. Người chơi bị bịt mắt rồi được đưa cho một tờ giấy in hình đuôi lừa để gắn nó lên tấm ảnh con lừa thiếu đuôi đã được dán sẵn trên tường và ở nơi người chơi dễ với tới. Trước khi bắt đầu, người chơi bị xoay tròn để họ khó xác định phương hướng. Ai gắn đuôi gần mông con lừa nhất sẽ thắng.

[2] Là một trò chơi video mà trong đó người chơi dùng các nhạc cụ thông qua bảng điều khiển mang hình dáng cây guitar để chơi những bản nhạc rock khác nhau. Người chơi phải gõ đúng nhịp và nốt hiển thị trên màn hình để ăn điểm cũng như làm khán giả trong trò chơi hào hứng.

[3] Bánh ngô cuộn thịt, rau, và nước sốt.

[4] Một công ty chuyên cung cấp dàn vũ công nữ, với những điệu nhảy chuẩn xác và được làm rất đồng bộ. Động tác nổi tiếng nhất của họ là đá cao ngang tầm mắt.

[5] Quần lót ống rộng của đàn ông.

[6] Món bánh truyền thống trong đốt lửa trại, phổ biến ở Mỹ và Canada. Nó bao gồm một lớp kẹo dẻo và một lớp sô-cô-la kẹp giữa hai miếng bánh quy làm từ bột chưa rây.

Leave a comment